Diễn biến Không_kích_Ấn_Độ_Dương_(1942)

Mở đầu

Hạm đội hùng mạnh của Nagumo đã rời vịnh Staring, Celebes vào ngày 26 tháng 3 năm 1942 để tiến vào Ấn Độ Dương.[4] Những tin tức giải mã nhận được đã cảnh báo cho đô đốc Sir James Somerville biết về cuộc đột kích của quân Nhật, do đó ông đã cho Hạm đội Anh rút về Addu Atoll trên quần đảo Maldives, chờ đón cuộc tấn công mà ông cho rằng sẽ diễn ra vào ngày 1 hoặc 2 tháng 4.

Khi mà thời điểm tấn công Ceylon bị dự đoán sai, Somerville đã điều hàng không mẫu hạm Hermes trở về Trincomalee để sửa chữa, hộ tống bởi hai tuần dương hạm hạng nặng CornwallDorsetshire, cùng khu trục hạm của Úc HMAS Vampire.

Đêm ngày 4 tháng 4, hạm đội Nhật đã bị phát hiện ở vị trí cách Ceylon 400 nặm về phía nam bởi một máy bay PBY Catalina do phi đội trưởng phi đoàn 413 Không quân Hoàng gia Canada Leonard Birchall lái. Vị trí của hạm đội Nhật đã được báo cáo về cho hải quân Anh trước khi chiếc Catalina bị một chiến đấu cơ Zero xuất phát từ Hiryū bắn hạ. Nhờ vậy mà tư lệnh hạm đội Anh lập tức phát lệnh cho các tàu ra khơi để tránh thảm họa bị tiêu diệt khi đang còn cắm neo như các chiến hạm Mỹ trong trận Trân Châu Cảng[3] cũng như lực lượng phòng không ở Ceylon được chuẩn bị sẵn sàng.

Không kích tại Colombo, Ceylon

Tuần dương hạm Cornwall bốc cháy và chìm vào ngày 5 tháng 4 năm 1942

Ngày 5 tháng 4 năm 1942, một lực lượng 125 máy bay Nhật bao gồm 36 chiếc máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A, 53 chiếc máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N và 36 chiến đấu cơ A6M Zero do Mitsuo Fuchida, người đã chỉ huy cuộc không kích vào Trân Châu cảng tiến đến không kích thành phố cảng Colombo. Tuy nhiên trên đường đi, máy bay Nhật đã bay ngang qua mà không thấy để tấn công các máy bay của Không quân Hoàng gia Anh ở Ratmalana, phía nam Colombo.[7] Những chiếc máy bay này sau đó đã tham gia chiến đấu với các máy bay Nhật trên vùng trời Colombo.

Cuộc tấn công của các máy bay Nhật đã đánh chìm tuần dương hạm phụ trợ Hector và khu trục hạm cũ Tenedos đang đậu ở cảng. Không quân Hoàng gia Anh mất 27 máy bay trong khi Nhật chỉ mất 7 máy bay. Buổi trưa ngày ấy, máy bay trinh sát Nhật phát hiện 2 tuần dương hạm Anh là chiếc Dorsetshirs và chiếc Cornwall đang chạy trên biển, 200 dặm phía tây nam Ceylon. 40 máy bay phóng ngư lôi được gọi đến và trong vòng một tiếng đồng hồ đã diệt gọn hai chiếc tàu này.[5] 424 thủy thủ đã chết sau cuộc tấn công này.

Ngày 6 tháng 4, tàu tuần tra Ấn Độ Indus cũng bị đánh chìm ở vùng biển Miến Điện, gần Akyab.

Hải quân Anh rút lui

Trước sức tấn công của người Nhật, đô đốc Somerville đứng trước một sự chọn lựa[5]:

  • Hoặc chấp nhận giao chiến, như thế thì đem 80 máy bay Spitfire của mình đối chọi với 300 Zero của đô đốc Nagumo. So sánh lực lượng không cân bằng.
  • Còn nếu rút chạy thì hải quân Nhật tha hồ thao túng Ấn Độ Dương, bờ biển Coromandel của Ấn Độ và đảo Ceylon.

Sau cùng Somerville quyết định rút lui về Đông châu Phi, mặc cho các sĩ quan dưới quyền dè bỉu, đả kích thậm tệ. Đây là lần đầu tiên trong 100 năm nay, hải quân Hoàng gia Anh phải chạy, không giao chiến với kẻ địch. Sở dĩ ông ta chọn lựa giải pháp này là vì nếu hạm đội Phương Đông của Anh bị hủy diệt thì Nhật Bản bất cứ lúc nào cũng có thể đổ bộ lên Ấn Độ, phong tỏa châu Úc, đe dọa đường hàng hải Cape Town - Suez. Còn nếu chịu mất mặt thì bảo toàn được lực lượng, đợi ngày tương quan lục lượng khả quan hơn.[8] Ngoài ra, ông còn có ý đồ đợi cho lực lượng đặc nhiệm Nhật tiến về phía bờ biển Ceylon bị máy bay và pháo bảo vệ bờ biển của Anh đánh tiêu hao, lúc đó hạm đội Anh mới quay trở lại tiến công hạm đội Nhật Bản từ phía sau.[3]

Không kích Trincomalee

Hermes chìm sau cuộc tấn công của các máy bay Nhật vào ngày 9 tháng 4 năm 1942.

Ngày 9 tháng 4 năm 1942, máy bay Nhật tấn công quân cảng Trincomalee lúc 7 giờ sáng. Người Anh đã được cảnh báo về cuộc tấn công nên hàng không mẫu hạm Hermes và các tàu hộ tống của nó đã rời cảng vào đêm trước đó. Tuy nhiên lúc 8 giờ 55 phút, Hermes bị một máy bay trinh sát Nhật Bản phát hiện khi đang ngoài khơi Batticaloa. Không có các máy bay trên sàn tàu, Hermes không thể tự vệ khi bị 70 máy bay ném bom tấn công vào lúc 10 giờ 35 phút ở Batticaloa. Bị đánh trúng khoảng 40 lần, Hermes chìm với tổn thất 307 người. Những tàu hộ tống của nó bao gồm khu trục hạm Vampire và tàu hộ tống nhỏ Hollyhock cùng hai tàu chở dầu cũng bị đánh chìm. 590 người sống sót sau cuộc tấn công được tàu bệnh viện Vita vớt lên và đưa về Colombo.

Không quân Hoàng gia Anh mất tổng cộng 8 chiếc Hawker Hurricane và một chiếc Fairey Fulmar. Trong khi đó người Nhật mất 5 máy bay ném bom và 6 chiến đấu cơ, trong đó có 1 chiếc lao đầu vào thùng xăng tấn công tự sát.

Vịnh Bengal

Trong khi đó, từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 4, hạm đội Mã Lai của đô đốc Ozawa Jisaburō cũng từ Mergui, Miến Điện tiến vào vịnh Bengal để tiến đánh các thương thuyền và oanh tạc vùng biển phía đông Ấn Độ. Đội phía Bắc đã đánh chìm tàu buôn Mỹ tải trọng 4.986 tấn Exmoor và các tàu buôn Anh Autoclycus tải trọng 7.621 tấn, Malta 9.066 tấn và Shinkuang 2.440 tấn. Đội trung tâm có hàng không mẫu hạm Ryujo cũng đánh chìm nhiều tàu Anh và máy bay của Ryujo còn không kích VizagapatamCocanada vào ngày 6 tháng 4. Đội phía Nam đã đánh chìm được các tàu buôn Anh Dardanus tải trọng 7.726 tấn, Ganara 5.281 tấn và Indora 6.622 tấn đang trên đường từ Calcutta đến Mauritius. Ngày 11 tháng 4, các chiến hạm này đã quay trở về căn cứ hải quân Singapore.[9]

Theo các số liệu của phía Anh, người Nhật đã đánh chìm 23 tàu chở hàng với tổng trọng tải 32.404 tấn.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Không_kích_Ấn_Độ_Dương_(1942) http://www.navweaps.com/index_oob/OOB_WWII_Pacific... http://serendipity365.com/uploads/Target_Ceylon_19... http://www.dutcheastindies.webs.com/nagumo.html http://www.worldwar2database.com/html/india42.htm http://www.ww2db.com/battle_spec.php?battle_id=7 http://www.bbc.co.uk/ww2peopleswar/timeline/factfi... http://www.raf.mod.uk/history/ceylon.html http://books.google.com.vn/books?id=MuyizRQAjt4C&p... http://books.google.com.vn/books?id=NbXccb3rkSUC&p... https://web.archive.org/web/20120630044158/http://...